Những đứa con của nửa đêm
Phan_36
“Mình ạ,” Ahmed Sinai nói, “đất nước này kết thúc rồi.” Sau vụ ngừng bắn và hút xoang, những lời này trở lại ám ảnh ông; và Amina bắt đầu thuyết phục ông di cư sang Pakistan, nơi các chị em còn sống của bà đang định cư, và nơi mẹ bà sẽ đến sau cái chết của cha bà. “Một khởi đầu mới,” bà gợi ý, “Janum, như vậy sẽ hay lắm. Quả đồi bị Chúa ruồng bỏ này còn gì cho ta nữa đâu?”
Vậy là rốt cuộc, sau bao sóng gió, Biệt thự Buckingham được giao vào tay đám đàn bà nhà Narlikar; và sau hơn mười lăm năm lỡ hẹn, gia đình tôi chuyển đến Pakistan, Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết. Ahmed Sinai hầu như không lưu lại gì; có nhiều cách chuyển tiền với sự trợ giúp của các công ty đa quốc gia, và cha tôi rành chuyện đó. Còn tôi, tuy buồn khi chia tay nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng không phải không vui khi được đi khỏi một thành phố nơi Shiva đang rình rập đâu đó như một quả mìn được chôn giấu kỹ càng.
Nhà tôi, rốt cuộc, rời Bombay vào tháng Hai năm 1963; và, vào ngày xuất hành, tôi cầm một quả địa cầu nhôm cũ ra vườn rồi chôn nó giữa những bụi xương rồng. Ở trong: một lá thư của Thủ tướng, một bức-hình-em-bé trang-nhất-cỡ-đại, với lời chú thích “Em bé của Nửa đêm”… Có thể chúng không phải là thánh tích – tôi không định so sánh những kỷ vật vụn vặt của đời mình với sợi tóc ở Hazratbal của Đấng Tiên tri, hay di hài của Thánh Francis Xavier tại Nhà thờ Bom Jesus – nhưng chúng là tất cả những gì sót lại từ quá khứ của tôi: một quả địa cầu nhôm móp méo, một lá thư ố mốc, một tấm ảnh. Chẳng còn gì khác, kể cả cái ống nhổ bạc. Ngoại trừ một hành tinh bị Con Khỉ giẫm nát, mọi kỷ lục còn lại được phong ấn trong hai cuốn thiên thư đóng kín, Sidijeen and Illiyun, hai cuốn Thiện Thư và Ác Thư; dù gì đi nữa, chuyện là như thế.
… Chỉ khi chúng tôi đã ở trên chiếc S.S.Sabarmati và buông neo ngoài Rann xứ Kutch, tôi mới nhớ tới cụ Schaapsteker; và, đột nhiên, tự nhủ có ai thông báo cho cụ rằng chúng tôi sắp đi không. Tôi không dám hỏi, sợ câu trả lời có thể là không; bởi vậy khi tôi nghĩ đến cảnh đội giải phóng mặt bằng vào việc, và hình dung ra những cỗ máy hủy diệt đập thủng văn phòng của cha tôi và căn phòng thiên thanh của tôi, kéo đổ cây cầu thang sắt cuốn của người hầu và căn bếp nơi Mary Pereira đã khuấy nỗi sợ của mình vào chutney và rau quả dầm, thảm sát hàng hiên nơi mẹ tôi từng ngồi với đứa bé như tảng đá trong bụng, tôi cũng tưởng tượng ra một quả cầu lăng[10] khổng lồ đâm sầm vào lãnh địa của Sharpsticker sahib, và ra chính ông già mất trí, nhợt nhạt kiệt quệ lưỡi chẻ, bị phơi ra ở đó trên nóc một tòa nhà đang vỡ vụn, giữa những ngôi tháp sụp đổ và mái ngói đỏ, ông cụ Schaapsteker nhăn nheo già đi chết dần dưới ánh mặt trời đã bao năm ông không nhìn thấy. Nhưng có lẽ tôi đang kịch tính hóa vấn đề; có lẽ tôi bị nhiễm tất cả những điều này từ một bộ phim cũ tên là Chân trời đã mất, trong đó những phụ nữ xinh đẹp và nhăn nheo và chết đi khi rời bỏ Shangri-La.
[10] Một quả bóng bằng sắt rất lớn, treo trên đầu cần cẩu như con lắc đồng hồ. Đây là thiết bị chuyên dùng để phá nhà, rất thịnh hành vào những năm 1950, 1960.
Với mỗi con rắn, có một cái thang; với mỗi cái thang, là một con rắn. Chúng tôi đến Karachi vào ngày 9 tháng Hai – và chỉ sau vài tháng, em gái tôi Jamila đã bước lên bệ phóng của một sự nghiệp sẽ đem lại cho nó cái tên Thiên thần của Pakistan và Họa mi của Đức tin; chúng tôi rời Bombay, nhưng vẫn được thơm lây. Còn một điều nữa: mặc dù tôi bị hút kiệt – mặc dù chẳng còn tiếng ai nói chuyện trong đầu tôi, và sẽ chẳng bao giờ nữa – nhưng lại có một sự bù đắp: ấy là, lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là niềm hân hoan tột bậc khi sở hữu một khứu giác.
Chương 22: Jamila Ca sĩ
Đó hóa ra là một khứu giác nhạy bén tới mức có thể nhận biết được mùi nồng nặc nhớp nháp của sự đạo đức giả đằng sau nụ cười hồ hởi mà bà bác không chồng Alia dùng để chào đón chúng tôi ở cầu cảng Karachi. Trở nên cay nghiệt không thể nào cứu vãn từ khi cha tôi bội bạc ngã vào vòng tay em bà nhiều năm trước, bà bác hiệu trưởng của tôi đã trở thành một hình hài đồ sộ, nặng nề của niềm ghen tuông chưa hề mờ nhạt; lớp lông đen, rậm của nỗi oán hận tua tủa mọc lên từ hầu hết mọi lỗ hở trên da bà. Và có thể bà đã lừa được cha mẹ tôi và Jamila bằng vòng tay dang rộng, bằng dáng chạy lạch bạch về phía chúng tôi, bằng tiếng reo vui “Ahmed bhai, đợi mãi! Nhưng thà muộn còn hơn không!”, bằng lời mời hiếu khách – và tất yếu sẽ được nhận lời – của con yêu nhền nhện; nhưng tôi, kẻ đã từng sống gần hết thời thơ bé trong mớ găng tay cay đắng và mũ quả bông của lòng đố kỵ của bà, kẻ đã bị nhiễm (mà không hề biết) căn bệnh thất bại từ những món đồ em bé có bề ngoài vô hại mà trong đó bà đã đan vào lòng thù hận của mình, và người, thêm vào đó, vẫn nhớ rất rõ cảm giác khi bị khát vọng trả thù ám ảnh, tôi, Saleem-bị-hút-kiệt, ngửi thấy ngay mùi phục hận rỉ ra từ các tuyến nội tiết của bà. Tôi, tuy vậy, hoàn toàn bất lực trong việc phản đối; chúng tôi bị lùa lên chiếc Datsun[1] của chí phục thù của bà rồi bị chở theo đường Bunder tới nhà bà ở Guru Mandir – như một bầy ruồi, nhưng còn ngu ngốc hơn, vì chúng tôi ăn mừng việc bị cầm tù.
[1] Một model ô tô do hãng Nissan sản xuất.
… Nhưng cái khứu giác ấy thật ghê gớm! Phần đông chúng ta bị giới hạn, từ lúc nằm nôi, chỉ có khả năng nhận biết một phổ mùi hẹp nhất có thể; tôi, tuy nhiên, trước nay chẳng hề ngửi thấy mùi gì, và bởi thể không hề biết đến mọi sự kiêng kỵ về mùi. Hệ quả là tôi có xu hướng không làm bộ thản nhiên khi ai đó phát trung tiện – điều làm tôi gặp phải không ít rắc rối với phụ huynh; tuy nhiên, điều quan trọng hơn là sự tự do khứu giác cho phép tôi hít được nhiều hơn rất rất nhiều so với những mùi có nguồn gốc thuần túy vật chất mà phần còn lại của nhân loại bằng lòng với việc ngửi thấy chúng. Vậy là, kể từ những ngày đầu tiên của tuổi thiếu niên trên đất Pakistan, tôi bắt đầu thu nạp những hương vị bí ẩn của thế gian, mùi thơm nồng nhiệt nhưng chóng phai của ái tình chớm nở, tới mùi cay âm trầm hơn, dai dẳng hơn của thù hận. (Không bao lâu sau khi đặt chân lên “Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết,” tôi đã phát giác trong bản thân sự nhơ bẩn tột cùng của tình yêu em gái; và ngọn lửa âm ỉ trong bác tôi đã xộc vào cánh mũi tôi từ sớm.) Mũi sẽ đem lại kiến thức, nhưng quyền-năng-tác-động-lên-sự-kiện thì không; cuộc xâm lăng Pakistan của tôi, vũ trang (nếu đó là từ phù hợp) chỉ bằng biến tướng mới của gien di truyền về mũi, đã cho tôi năng lực đánh-hơi-ra-sự-thật, ngửi-thấy-có-gì-trong-không-khí, và lần theo dấu vết; nhưng không cho tôi năng lực duy nhất mà kẻ xâm lăng cần đến; sức mạnh để chế ngự kẻ thù.
Tôi sẽ không phủ nhận: tôi chưa bao giờ tha thứ cho Karachi vì không là Bombay. Nằm giữa sa mạc và những con suối nước mặn ảm đạm, trên bờ lô nhô những rặng đước lùn, thành phố mới dường như có một bề ngoài xấu xí đến mức lu mờ cả sự xấu xí của tôi; do phát triển quá nhanh – dân số tăng gấp bốn lần từ 1947 – nó có hình thù dị dạng đầy u bướu của một gã lùn khổng lồ. Vào sinh nhật thứ mười sáu, tôi được tặng một chiếc xe tay ga Lambretta; cưỡi chiếc xe không cửa kính đi khắp phố phường, tôi hít thở mùi tuyệt vọng cam chịu số kiếp của cư dân khu ổ chuột và thái độ phòng thủ đầy tự mãn của đám nhà giàu; tôi bị hút theo dấu mùi của những số phận trắng tay và cả sự cuồng tín, bị lùa xuống một hành lang dài dưới lòng đất mà cuối đường là cánh cửa dẫn đến Tai Bihi, người điếm già nhất thế gian… nhưng tôi đang đánh mất sự tự chủ. Trung tâm của Karachi của tôi là nhà của Alia Azia, một tòa nhà lớn, cũ kỹ trên đường Clayton (bà hẳn đã dật dờ ở đây suốt nhiều năm như một hồn ma không có ai để ám), một kiến trúc của bóng tối và sơn đã ố vàng, chiều chiều lại nằm ở khu này. Kể cả khi, nhiều năm sau, ở ghetto của giới ảo thuật, sống dưới cái bóng của một thánh đường khác, cái bóng từng (ít ra trong một thời gian) là một vùng nửa tối chở che và không đe dọa, tôi chưa bao giờ đánh mất cái nhìn hình thành ở Karachi về bóng râm của các thánh đường, mà ở đó, tôi luôn thấy như ngửi thấy mùi hẹp hòi, căm hận, kết tội của bác tôi. Người ẩn nhẫn chờ thời: nhưng đòn báo thù, khi đã ra tay, thì trí mạng.
Đó là, hồi ấy, một thành phố của ảo ảnh; bị cắt đứt khỏi sa mạc, song nó không triệt để thành công trong việc phá vỡ quyền năng của sa mạc. Ốc đảo tỏa sáng trên mặt đường nhựa của phố Elphinstone, dịch trạm[2] lung linh giữa những túp lều lụp xụp quanh cây cầu đen, Kala Pul. Ở thành phố không mưa ấy (mà điểm chung duy nhất với thành phố nơi tôi ra đời là cả hai đểu khởi đầu từ một làng chài), sa mạc tuy ẩn mình nhưng vẫn giữ được quyền năng buôn-bán-ảo-tượng, mà hệ quả là người dân Karachi chỉ sở hữu một khả năng nắm bắt hiện thực cực kỳ trơn trượt, và do đó sẵn sàng tìm đến lãnh tụ của họ để được chỉ điểm cái gì là thật còn cái gì không. Bị bao vây giữa những cồn cát ảo tưởng và hồn ma các hoàng đế cổ đại, và cả ý niệm rằng tên của tín ngưỡng nền tảng của thành phố này nghĩa là “phục tùng”, các bằng hữu công dân mới của tôi tỏa ra mùi đồ luộc nhạt nhẽo của sự thuần phục, điều dễ gây trầm cảm cho một cái mũi từng ngửi – vào phút chót, và tuy chỉ trong chốc lát – mùi bất phục tùng cay nồng gia vị của Bombay.
[2] Nguyên văn: caravanserais, khách sạn dành cho các đoàn lữ hành (caravan) nằm dọc những tuyến đường thương mại xuyên lục địa như Con đường Tơ lụa.
Đến nơi không bao lâu – và, có lẽ, cảm thấy ức chế trong không khí phủ-bóng-thánh-đường của tòa nhà trên đường Clayton – cha tôi quyết chí xây một ngôi nhà mới. Ông mua một lô đất ở khu vực sành điệu nhất của “giới thượng lưu”, khu quy hoạch đô thị mới; và vào sinh nhật thứ mười sáu, Saleem không chỉ được một chiếc Lambretta – tôi còn biết đến quyền năng thần bí của dây rốn.
Thứ gì, ngâm trong nước muối, mười sáu năm nằm trong almirah của cha tôi, chỉ chờ một ngày như thế? Thứ gì, lơ lửng như rắn nước trong cái bình cũ, theo gia đình tôi vượt biển và kết cục là được chôn xuống đất Karachi cứng, cằn cỗi? Thứ gì từng nuôi dưỡng sự sống trong một tử cung – thứ gì nay bơm vào đất một sức sống phi thường, và cho ra đời một bungalow[3] hiện đại, lệch tầng, kiểu Mỹ?... Né tránh những câu hỏi hóc hiểm này, tôi xin giải thích rằng, vào sinh nhật thứ mười sáu của tôi, gia đình tôi (kể cả bác Alia) tề tựu trên lô đất trên đường Korangi; dưới sự theo dõi của những cặp mắt công nhân và một hàm râu giáo sĩ, Ahmed trao cho Saleem một cây cuốc chim; tôi bổ nhát cuốc khởi công vào đất. “Một khởi đầu mới,” Amina nói, “Inshallah[4], chúng ta giờ đã là những con người mới.” Được mong ước cao quý nhưng bất khả đạt của bà thôi thúc, một người thợ mau chóng khoét rộng cái lỗ tôi vừa đào; và giờ một bình ngâm được đưa ra. Nước muối được trút lên mặt đất khô hạn; và thứ-còn-lại-bên-trong được giáo sĩ ban phước. Sau đó, một sợi dây rốn – của tôi? Hay của Shiva? – được trồng xuống đất; và ngay lập tức, một ngôi nhà bắt đầu mọc lên. Có bánh kẹo và nước ngọt; vị giáo sĩ, biểu lộ một cơn đói ghê gớm, tiêu thụ hết ba mươi chín chiếc laddoo; và Ahmed Sinai không một lời phàn nàn về sự tốn kém. Tinh thần của sợi dây rốn mới chôn thôi thúc đội thợ; nhưng mặc dù móng được đào rất sâu, chúng vẫn không ngăn được ngôi nhà sụp đổ trước khi chúng tôi kịp đến sống ở đây.
[3] Kiểu nhà nhỏ, một hoặc một tầng rưỡi, có hiên rộng, kiến trúc xuất xứ từ Ấn Độ.
[4] Còn có cách viết khác là Insha’Allah, nghĩa là theo Chúa.
Phỏng đoán của tôi về dây rốn: tuy chúng sở hữu quyền năng làm nhà cửa mọc lên, song hiển nhiên là một số sợi làm việc này tốt hơn các sợi khác. Thành phố Karachi đã minh chứng cho điều đó; rõ ràng là được xây dựng trên những dây rốn hoàn toàn không thích hợp, nơi đây đầy rẫy những căn nhà dị dạng, những đứa trẻ còi cọc gù lưng bởi sinh mạch thiếu dưỡng chất, những ngôi nhà bị mù một cách bí hiểm, không có một cửa sổ nào đủ lớn, những căn nhà nhìn như đài phát thanh hay máy điều hòa hay xà lim, những cao ốc điên rồ đầu nặng trịch, gục xuống một cách đều đặn đơn điệu, như những gã say xỉn; một cơn bùng nổ của những căn nhà điên dại, mà sự thiếu thốn về điều kiện sinh hoạt chỉ thua kém sự xấu xí bất thường của chúng. Thành phố này che khuất sa mạc; nhưng dây rốn, hoặc là sự cằn cỗi của đất, đã khiến nó phát triển thành một thứ gì đó quái dị.
Có khả năng nhắm mắt ngửi thấy niềm vui và nỗi buồn, đánh hơi được thông minh hay ngu dốt, tôi đến Karachi và tuổi thiếu niên – với ý thức, lẽ tất nhiên, rằng những quốc gia non trẻ của tiểu lục địa và tôi đều đã bỏ tuổi thơ lại đằng sau; rằng những nỗi đau lớn dần và những biến đổi bối rối lạ lẫm của giọng nói đang chờ đợi tất cả chúng tôi. Hút xoang đã kiểm duyệt cuộc sống nội tâm của tôi; nhưng ý thức liên kết của tôi chưa bị hút kiệt.
Saleem xâm lược Pakistan với vũ khí duy nhất là cái mũi siêu sắc bén; nhưng; điều tồi tệ nhất là, gã đã đi nhầm đường! Mọi cuộc chinh phục thành công ở khu vực này của thế giới đều bắt đầu từ phương Bắc; mọi kẻ chinh phạt đều theo đường bộ. Vô tri giương buồm ngược chiều gió của lịch sử, tôi đến Karachi từ phía Đông Nam, theo đường biển. Những gì tiếp nối đáng lẽ phải không làm tôi bất ngờ mới phải.
Nhìn lại lịch sử, lợi thế khi tràn xuống từ phương Bắc là hiển nhiên. Hai tướng của Umayyad[5], Hajjaj bin Yusuf và Muhammad bin Qasim, đều từ phía Bắc xuống; người Ismaili[6] cũng vậy. (Biệt viện Honeymoon, nơi nghe nói Aly Khan[7] đã nghỉ lại với Rita Hayworth, nhìn xuống lô đất vùi dây rốn của nhà tôi; nghe đồn rằng minh tinh màn bạc này đã gây xôn xao dư luận khi đi dạo ngoài vườn trong một loạt váy ngủ kiểu Hollywood huyền bí, mỏng tang. Ôi tính siêu việt khó cưỡng của phương Bắc! Từ phương nào Mahmud xứ Ghazni đã tập kích bình nguyên sông Ấn[8], mang theo một ngôn ngữ sở hữu không dưới ba hình thái của ký tự S? Câu trả lời tất yếu: sé, sin và swad[9] là những kẻ xâm lăng phương Bắc. Và Muhammad bin Sam Ghuri[10], người lật đổ các Ghaznavid và lập nên Vương triều Delhi? Những đứa con của Sam Ghuri cũng hành quân Nam tiến.
[5] Một triều đại thống trị Bắc Phi và Tây Á sau khi Muhammad qua đời. Vào năm 711, Hajjai bin Yusuf khi đó là Tổng trấn thành Baghdad đã sai Muhammad bin Qasim dẫn quân sang Ấn Độ.
[6] Một nhánh của Hồi giáo dòng Shiite, xem Ismail là thủ lĩnh tinh thần (imam) thứ bảy. Vào thế kỷ 19, một bộ phận lớn của cộng đồng này đã chạy từ Ba Tư sang Ấn Độ.
[7] Hoàng tử và người đứng đầu dòng Hồi giáo Ismaili, chồng thứ ba của diễn viên Rita Hayworth.
[8] Sultan xứ Ghazni, thuộc Afghanistan ngày nay, người chinh phục vùng Bắc Ấn vào thế kỷ 11, và du nhập tiếng Ả Rập (ngôn ngữ có ba hình thái của chữ S) vào Ấn Độ.
[9] Ba âm trong tiếng Ả Rập, khi phiên âm sang bảng chữ cái Latin đều được thể hiện bằng chữ S.
[10] Sultan xứ Ghur, thuộc Afghanistan ngày nay, người đã đánh bại hậu duệ của Mahmud xứ Ghazni.
Rồi Tughlaq[11], rồi các Đại đế Mughal… nhưng tôi nói như vậy là rõ rồi. Chỉ cần bổ sung rằng tư tưởng, cũng như quân viễn chinh, đã tràn xuống phương Nam Nam Nam từ các cao nguyên phương Bắc: Sikandar But-Shikan huyền thoại, Kẻ Hủy hoại Thánh tượng của Kashmir, kẻ vào cuối thế kỷ 14 đã tàn phá mọi đền đài Hindu ở Thung lũng (tạo một tiền lệ cho ông tôi), đã từ trung du tiến xuống đồng bằng châu thổ; và năm trăm năm sau, phong trào mujahideen[12] của Syed Ahmed Barilwi cũng đi nẻo đường đã mòn dấu chân ấy. Tư tưởng của Barilwi: tiết chế, căm ghét tín đồ Hindu, thánh chiến… những triết lý và những ông hoàng (nói thế cho gọn) đều đến từ hướng đối lập với tôi.
[11] Một vương triều gốc Thổ, cai trị Delhi vào thế kỷ 14.
[12] Một phong trào du kích Hồi giáo cực đoan. Barilwi là một lãnh tụ đạo Hồi vào cuối thế kỷ 18 và đầu 19, đã khởi xướng cuộc thánh chiến (jihad) chống lại người Sikh ở bang Punjab.
Cha mẹ Saleem nói, “Chúng ta đều phải trở thành con người mới”; ở xứ sở của những kẻ thuần khiết, thuần khiết trở thành lý tưởng của chúng tôi. Nhưng Saleem đã vĩnh viễn bị vấy bẩn chất Bombay, đầu gã chứa đầy đủ thứ tôn giáo không phải của Allah (như những tín đồ đạo Hồi đầu tiên của Ấn Độ, các thương nhân Mopla[13] xứ Malabar, tôi sống ở một đất nước nơi dân số thần linh ngang ngửa số lượng con người, thế nên, trong cơn phản kháng vô thức chống lại cả bầy thánh thần sợ không gian hẹp, gia đình tôi đã đi theo đạo đức kinh doanh, thay vì tôn giáo); và cơ thể gã rồi sẽ bộc lộ sự ưa thích rõ rệt đối với người không thuần khiết. Như dân Mopla, tôi bị vận mệnh định sẵn là một kẻ trái đời; nhưng, cuối cùng, thuần khiết đã phát hiện ra tôi, và ngay cả tôi, Saleem, cũng được tẩy rửa mọi điều lầm lạc.
[13] Cộng đồng đạo Hồi ở bang Kerala, hậu duệ của những người Moor và Ả Rập kết hôn với những phụ nữ địa phương ở Malabar.
Từ sau sinh nhật thứ mười sáu, tôi theo học lịch sử ở trường trung học của bác Alia; nhưng kể cả học hành cũng không làm tôi cảm thấy mình là một phần của quốc gia thiếu vắng những đứa trẻ nửa đêm ấy, nơi các bạn đồng học của tôi xuống đường tuần hành đòi hỏi một xã hội khắt khe hơn, Hồi giáo hơn – chứng tỏ rằng họ chủ định trở thành phản đề của sinh viên mọi nơi khác trên thế giới, bằng cách đòi hỏi nhiều-luật-hơn-thay-vì-ít-đi. Cha mẹ tôi, tuy vậy, quyết tâm bám rễ tại đất này; mặc dù Ayub Khan và Bhutto đang tạo dựng liên minh với Trung Quốc (nước mới đây còn là kẻ thù của chúng tôi), Ahmed cùng Amina bỏ ngoài tai mọi lời phê phán quê hương mới của họ; và cha tôi tậu một nhà máy khăn tắm.
Ngày ấy, cha mẹ tôi toát ra một vẻ rạng rỡ mới mẻ; màn sương tội lỗi ở Amina đã tan đi, mụn cóc có vẻ không làm khổ bà nữa; trong khi đó Ahmed, dù vẫn trắng bệch, cảm thấy băng dưới dương căn ông tan dần dưới hơi ấm của tình yêu vừa tìm thấy của ông đối với vợ mình. Đôi khi sáng ra, Amina có vết răng trên cổ; chốc chốc bà lại bật cười khúc khích, như một cô học trò. “Hai anh chị, thiệt tình,” Alia chị bà nói, “Cứ như vợ chồng son, hay cái gì không biết.” Nhưng tôi có thể ngửi ra điều gì ẩn sau hàm răng của Alia; điều gì ở lại khi những lời lẽ thân thiện thốt ra… Ahmed Sinai lấy tên vợ đặt cho sản phẩm của mình,: Khăn tắm hiệu Amina.
“Mấy đại gia này là ai hả? Đám Dawood, Saigol, Haroon[14] này?” ông hào hứng, bỏ qua các gia tộc giàu có nhất xứ này. “Valika với Zulfikar là ai hả? Ta thừa sức ăn gỏi mười tên một lúc. Hãy chờ xem!”, ông hứa, “Trong vòng hai năm, cả thế giới sẽ lau người bằng khăn hiệu Amina. Loại khăn bông xù tốt nhất! Dây chuyền tiên tiến nhất! Chúng ta sẽ làm cả thế giới khô và sạch; nhà Dawood và Zulfikar sẽ phải năn nỉ xin bí quyết của ta; và ta sẽ bảo, phải, khăn này hảo hạng; nhưng bí quyết không nằm ở khâu sản xuất; chính tình yêu đã chinh phục tất cả.” (Tôi nhận ra, trong diễn văn của cha tôi, tác động dai dẳng của virus lạc quan.)
[14] Những gia tộc kinh doanh giàu có và thế lực bậc nhất ở Ấn Độ thời kỳ đó.
Nhãn hiệu Amina có chinh phục cả thế giới nhân danh sự sạch sẽ (điều đứng ngay sau…)? Nhà Valika và Saigol có đến hỏi Ahmed Sinai, “Chúa ơi, tụi tôi mù tịt đấy, ờ, anh làm thế nào thế?” Thứ khăn bông hảo hạng, mẫu mã được Ahmed Sinai đích thân thiết kế - hơi lòe loẹt một tí, nhưng không sao, sản phẩm của tình yêu mà – có quét sạch hơi ẩm trên người dân Pakistan cũng như các thị trường xuất khẩu? Dân Nga Hoa Kỳ Anh Cát Lợi có quấn quanh người cái tên được bất tử hóa của mẹ tôi?... Chuyện về Nhãn hiệu Amina phải chờ một chút; bởi vì sự nghiệp của Jamila Ca sĩ sắp sửa cất cánh; và căn nhà dưới bóng thánh đường trên đường Clayton vừa được Bác Puffs viếng thăm.
Tên thật của bác là Thiếu tá (đã về hưu) Alauddin Latif; bác nghe nói về giọng hát của em gái tôi từ “anh bạn chí cốt Đại tướng Zulfikar; từng ở chung với hắn hồi ‘47 trong Lực lượng Biên phòng.” Bác xuất hiện ở nhà Alia Aziz không lâu sau sinh nhật thứ mười lăm của Jamila, rạng rỡ và đầy sinh lực, phô ra cái miệng đầy răng vàng nguyên chất. “Tính tôi đơn giản,” bác giải thích, “như Tổng thống đáng kính của chúng ta. Tôi giữ tiền ở đâu an toàn.” Như Tổng thống đáng kính của chúng ta, đầu ngài Thiếu tá là một hình cầu hoàn hảo; không như Ayub Khan, Latif rời quân ngũ để gia nhập ngành giải trí. “Ông bầu số một vô đối ở Pakistan, ông bạn ạ,” ông bảo cha tôi. “Chẳng có bí quyết gì ngoài tính tổ chức; cái nết Nhà binh từ xưa, đánh chết chưa chừa.” Thiếu tá Latif có một đề xuất: ông muốn nghe Jamila hát, “Và nếu cô bé hát hay bằng hai phần trăm những gì tôi nghe kể thôi, thưa ngài tôn kính, tôi sẽ làm cô nổi tiếng! Ồ, vâng, sau một đêm, chắc chắn! Quan hệ: chỉ cần có thế; quan hệ và tài tổ chức; và Thiếu tá (đã về hưu) Latif tôi đây có tất cả. Alauddin Latif,” ông nhấn mạnh, cười lấp lánh vàng với Ahmed Sinai, “Ông biết chuyện đó chứ? Tôi chỉ cần chà xát cây đèn cũ kỹ, thế là thần Đèn hiện ra mang theo danh vọng và tiền tài. Con gái ông sẽ ở trong những bàn tay cực tốt. Cực tốt.”
May mắn cho đội quân fan hâm mộ của Jamila Ca sĩ là Ahmed Sinai là một người chồng đang yêu; mềm lòng vì hạnh phúc của bản thân, ông không thể từ chối Thiếu tá Latif ngay tại chỗ. Ngày nay tôi cũng cho rằng bố mẹ tôi đã đi đến kết luận rằng năng khiếu của con gái họ quá phi thường không thể giữ riêng cho mình; ma thuật siêu phàm trong tiếng hát thiên thần của Jamila bắt đầu dạy họ về nhu cầu cấp thiết tất yếu của tài năng. Nhưng Ahmed và Amina có một băn khoăn. “Con gái chúng tôi,” Ahmed nói – tự đáy lòng ông luôn là người truyền thống hơn trong hai vợ chồng – “là con nhà gia giáo; vậy mà ông muốn mang nó lên sân khấu, trước mặt có Chúa mới biết bao nhiêu gã đàn ông lạ…?” Viên Thiếu tá tỏ ra phật ý. “Thưa ngài,” ông nghiêm giọng, “ngài nghĩ tôi là người kém nhạy cảm ư? Bản thân tôi cũng có con gái, ông bạn ạ. Bảy đứa, ơn Chúa. Mở cho chúng một đại lý du lịch nho nhỏ; nhưng giao dịch hoàn toàn qua điện thoại. Thực ra, là đại lý qua điện thoại lớn nhất vùng. Thực tế, chúng tôi gửi lái tàu hỏa sang Anh; tài xế xe buýt nữa. Ý tôi là,” bác vội vàng bổ sung, “con gái ngài sẽ được tôn trọng y như con tôi. Chính ra còn hơn thế; cô ấy sẽ là một ngôi sao!”
Các cô con gái của Thiếu tá Latif – Sana và Rafia và năm –afia khác – được gọi chung, bởi phần còn lại của con Khỉ trong em tôi, là “các Puffia”; đầu tiên bố các cô có biệt danh “Bố-Puffia,” và sau đó là Bác – một cách gọi xã giao – Puffs. Bác không hề nói ngoa; trong vòng sáu tháng Jamila Ca sĩ sẽ có đĩa hát ăn khách, một đội quân hâm mộ, mọi thứ; tất cả, như tôi sắp giải thích, mà không cần lộ mặt.
Bác Puffs trở thành một gương mặt quen thuộc trong cuộc sống của chúng tôi; hầu như tối nào bác cũng đến ngôi nhà ở đường Clayton, vào lúc tôi vẫn coi là giờ cocktail, để uống nước lựu và đề nghị Jamila hát đôi chút. Em, giờ đã trở thành một thiếu nữ rất mực dịu hiền, luôn chiều ý bác… sau đó bác sẽ đằng hắng như bị mắc gì ở cổ rồi bắt đầu thân mật trêu tôi về chuyện lập gia đình. Những nụ cười hai bốn karat làm tôi lóa mắt trong khi bác, “Đến tuổi cưới vợ rồi đấy, chàng trai. Nghe bác: kiếm một con bé sáng dạ nhưng sâu răng; cháu sẽ có bạn đời và két sắt cả hai trong một!” Con gái Bác Puffs, bác cam đoan, cô nào cũng đáp ứng tiêu chuẩn trên… Tôi, ngượng ngịu, ngửi thấy rằng bác chỉ nói đùa một nửa, sẽ thốt lên, “Ôi, Bác Puffs!” Bác biết cái biệt danh này; khá thích nó là khác. Vỗ đùi tôi, bác thốt, “Làm cao, hử? Được lắm. OK, cậu trai: cháu lấy quách một đứa nhà bác, bác đảm bảo sẽ nhổ sạch răng của nó; khi cháu cưới nó về, nó sẽ có một nụ cười bạc triệu làm của hồi môn!” Ngay sau đó mẹ tôi thường cố tình chuyển chủ đề; bà không hào hứng với ý tưởng của Bác Puffs, bất kể hàm răng giả kia đắt tiền đến đâu… vào tối đầu tiên ấy, cũng như rất thường xuyên sau này, Jamila hát cho Thiếu tá Alauddin Latif nghe. Giọng em lướt qua cửa sổ và làm tiếng xe cộ lặng im; chim ngưng hót và, ở tiệm bánk kẹp bên kia đường, đài bị tắt đi; đường phố đầy người đứng yên bất động, và giọng em tôi tràn qua họ… khi em kết thúc, chúng tôi nhận thấy Bác Puffs đang khóc.
“Một viên ngọc,” bác nói, xịt còi hơi vào chiếc mùi soa, “Thưa Ông Bà, con gái hai vị là một viên ngọc. Tôi xin ngả mũ kính phục. Cực kính phục. Cô bé đã cho tôi thấy rằng một giọng ca vàng còn đáng giá hơn một miệng răng vàng.”
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian